Hoàn thiện thể chế, tăng đầu tư cho văn hóa
Dự thảo văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng đang nhận được sự quan tâm và góp ý tâm huyết của nhiều tầng lớp nhân dân. Trong đó, giới nghiên cứu, các nhà văn hóa, chuyên gia và quản lý đã có nhiều ý kiến tập trung làm rõ những quan điểm mới của Đảng về phát triển văn hóa và con người Việt Nam, đề xuất giải pháp để chủ trương sớm đi vào cuộc sống, trở thành động lực phát triển đất nước.
![]() |
| Chương trình nghệ thuật đặc sắc, ấn tượng kỷ niệm ngày lễ lớn của TPHCM được tổ chức tại Quảng trường Thắng Tam (phường Vũng Tàu). Ảnh: TRÚC GIANG |
TS NGUYỄN TIẾN THƯ - Phó Viện trưởng Viện Văn hóa và phát triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh:
Phát triển môi trường văn hóa số lành mạnh
Dự thảo Văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng đã thể hiện tầm nhìn toàn diện về văn hóa, song cần tiếp tục hoàn thiện ở một số nội dung trọng tâm.
![]() |
Thứ nhất, làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa phát triển văn hóa và phát triển con người. Điều này sẽ giúp cụ thể hóa quan điểm “phát triển văn hóa gắn với phát triển con người”, định hướng lớn đã được khẳng định trong các chiến lược phát triển văn hóa gần đây.
Thứ hai, làm rõ hơn nội dung văn hóa số và quản trị không gian mạng. Cần bổ sung định hướng: phát triển môi trường văn hóa số lành mạnh, quản lý hiệu quả các nền tảng truyền thông mới, đồng thời chủ động ứng dụng công nghệ số để quảng bá văn hóa dân tộc. Trước thực trạng các trào lưu lệch chuẩn, phản văn hóa trên mạng xã hội đang tác động tiêu cực đến lối sống, đặc biệt là giới trẻ, Văn kiện cần đề ra giải pháp cụ thể như: hoàn thiện pháp luật về an ninh mạng; nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ số; tăng cường giáo dục kỹ năng số và năng lực thẩm định thông tin cho công dân.
Thứ ba, bổ sung quan điểm đầu tư cho văn hóa. Cần khẳng định rõ nguyên tắc: đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho phát triển con người và tương lai đất nước. Trong thực tế, nhiều chính sách văn hóa khó triển khai do thiếu nguồn lực. Do đó, Văn kiện cần thể hiện rõ quan điểm: Nhà nước ưu tiên ngân sách cho văn hóa tương xứng với các lĩnh vực khác.
Thứ tư, coi trọng văn hóa cơ sở và vùng dân tộc thiểu số. Cần tăng đầu tư thiết chế văn hóa, nâng cao chất lượng cán bộ địa phương, có chính sách bảo tồn, phát huy văn hóa dân tộc thiểu số và hỗ trợ nghệ nhân dân gian...
Thứ năm, phát triển công nghiệp văn hóa với cơ chế cụ thể. Cần hoàn thiện thể chế kinh tế trong văn hóa, bảo hộ sở hữu trí tuệ, khuyến khích đầu tư xã hội, đào tạo nhân lực chất lượng cao, hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo, xây dựng hệ sinh thái phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.
Thứ sáu, xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh doanh. Trong Đảng, đề cao văn hóa liêm chính, tinh thần phục vụ nhân dân; với doanh nghiệp, khuyến khích xây dựng văn hóa và đạo đức kinh doanh, phát huy minh bạch, sáng tạo và trách nhiệm xã hội. Thứ bảy, phát huy vai trò giáo dục, gia đình và xã hội. Cần gắn kết 3 môi trường này, đồng thời phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong phong trào xây dựng đời sống văn hóa.
Giải pháp trọng tâm là: hoàn thiện thể chế văn hóa; tăng đầu tư và xã hội hóa nguồn lực; phát triển nhân lực chất lượng cao; đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền; xây dựng mô hình điểm và cơ chế giám sát, đánh giá hiệu quả thực thi...
GS-TS TỪ THỊ LOAN - Nguyên Quyền Viện trưởng Viện Văn hóa, nghệ thuật quốc gia Việt Nam:
Văn hóa được nhận diện rõ hơn như một “sức mạnh mềm” chiến lược
Những quan điểm mới trong dự thảo văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng đã khẳng định một bước tiến quan trọng trong tư duy lý luận về văn hóa của Đảng: từ việc coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là nguồn lực nội sinh của sự phát triển, đến nay văn hóa được nhận diện rõ hơn như một “sức mạnh mềm” chiến lược - yếu tố then chốt góp phần nâng cao vị thế và uy tín quốc gia trong tiến trình hội nhập quốc tế. Các giải pháp thiết thực: chủ động, tích cực hợp tác, quảng bá hình ảnh đất nước, giá trị văn hóa và con người Việt Nam ra thế giới; hoàn thiện các cơ chế, chính sách đột phá phát triển mạnh công nghiệp văn hóa... Đây không chỉ là sự mở rộng về phạm vi nhận thức, mà còn là sự khẳng định vai trò thực tiễn của văn hóa trong mọi lĩnh vực: từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến phát triển văn hóa, con người Việt Nam toàn diện.
![]() |
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số, sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam ngày càng được thể hiện rõ qua những giá trị mang tính bản sắc và năng lực sáng tạo của con người Việt Nam. Việc phát huy sức mạnh này đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, sự chủ động của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, doanh nghiệp văn hóa, cùng sự hưởng ứng của nhân dân. Xây dựng và phát huy sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam không chỉ là mục tiêu, mà còn là con đường để khẳng định bản lĩnh, trí tuệ và tầm vóc dân tộc Việt Nam trong thời đại mới. Khi văn hóa trở thành nguồn lực nội sinh và sức mạnh mềm của quốc gia, Việt Nam sẽ có thêm nền tảng vững chắc để phát triển nhanh, bền vững, khẳng định vị thế là một quốc gia vừa giàu bản sắc vừa có tầm ảnh hưởng tích cực trong khu vực và trên thế giới.
PGS-TS BÙI HOÀI SƠN - Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và xã hội của Quốc hội:
Cụ thể hóa hơn nữa hệ giá trị Việt Nam thời kỳ mới
Trong dự thảo văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, về phát triển văn hóa có nhiều điểm mới, nhưng cần tiếp tục hoàn thiện để trở thành định hướng chiến lược có tính hành động cao.
![]() |
Một là, cần cụ thể hóa hơn nữa hệ giá trị Việt Nam thời kỳ mới. Việc xác lập 4 nhóm giá trị: quốc gia, văn hóa, gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam là một bước tiến lớn, song chưa làm rõ nội hàm. Bên cạnh đó, văn kiện cần bổ sung lộ trình triển khai, cơ chế giám sát cũng như cách đưa hệ giá trị này đi vào thực tiễn. Ví dụ, việc tích hợp hệ giá trị vào chương trình giáo dục phổ thông, đưa vào phong trào thi đua “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” hay truyền thông qua báo chí, mạng xã hội cần được quy định rõ. Nếu không có thiết kế cụ thể, những hệ giá trị này rất dễ dừng lại ở khẩu hiệu.
Hai là, phải có giải pháp rõ ràng để khắc phục tình trạng đầu tư cho văn hóa chưa tương xứng. Thực tế nhiều năm qua, tỷ lệ ngân sách dành cho văn hóa vẫn ở mức rất thấp. Văn kiện cần bổ sung chỉ tiêu ngân sách cụ thể, cơ chế khuyến khích hợp tác công - tư và xã hội hóa, quy định rõ trách nhiệm phân bổ nguồn lực của từng cấp, từng ngành.
Ba là, cần có chính sách mạnh mẽ hơn cho phát triển văn hóa số và công nghiệp văn hóa. Dự thảo đã đề cập văn hóa số và công nghiệp văn hóa, song còn chung chung. Trong bối cảnh mạng xã hội đang trở thành “không gian sinh hoạt chính” của giới trẻ, cần có bộ quy tắc ứng xử trên không gian mạng để hình thành chuẩn mực mới, khuyến khích sáng tạo các nội dung tích cực. Với công nghiệp văn hóa, văn kiện nên xác định rõ những ngành ưu tiên (phim ảnh, âm nhạc, thiết kế, thời trang, trò chơi trực tuyến, du lịch văn hóa…) và đưa ra cơ chế hỗ trợ cụ thể như tín dụng, thuế, bảo hộ bản quyền, hạ tầng số. Nếu không, khái niệm công nghiệp văn hóa sẽ dừng lại ở khẩu hiệu, khó trở thành động lực thực sự.
Bốn là, cần làm rõ cơ chế trọng dụng nhân tài, phát huy vai trò của các lực lượng sáng tạo. Trí thức, văn nghệ sĩ, doanh nhân và thanh niên được coi là lực lượng tiên phong trong xây dựng và lan tỏa hệ giá trị, nhưng trong văn kiện, chính sách dành cho họ còn khá mờ nhạt. Văn kiện cần bổ sung cơ chế đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, bảo vệ bản quyền sáng tạo, khuyến khích sự dấn thân của giới trẻ trong lĩnh vực công nghiệp sáng tạo.
Năm là, cần cụ thể hóa chiến lược ngoại giao văn hóa và xây dựng "sức mạnh mềm" quốc gia. Văn kiện cần đề cập mạnh mẽ hơn tới việc xây dựng thương hiệu văn hóa quốc gia, tổ chức các sự kiện văn hóa nghệ thuật tầm quốc tế, tăng cường sự hiện diện của Việt Nam trong các mạng lưới sáng tạo toàn cầu của UNESCO.
Theo sggp.org.vn




về đầu trang