Chủ Nhật, 09/11/2025, 21:31 (GMT+7)
.

Đồng Tháp hướng đến mục tiêu giảm phát thải vào năm 2030

Để hạn chế sự nóng lên toàn cầu trong thời gian ngắn, thì việc giảm lượng khí thải Mê-tan sẽ mang lại hiệu quả cao hơn nhiều so với việc giảm CO2. Các nỗ lực quốc tế như Sáng kiến Cam kết Mê-tan Toàn cầu (Global Methane Pledge) đang được thúc đẩy nhằm cắt giảm 30% lượng khí mê-tan phát thải vào năm 2030 so với mức năm 2020, góp phần bảo vệ khí hậu và ổn định hệ sinh thái Trái đất.

GIẢM PHÁT THẢI KHÍ MÊ-TAN TRONG LĨNH VỰC TRỒNG TRỌT

Khí mê-tan (CH4) là một trong những khí nhà kính mạnh nhất, chỉ đứng sau CO2 về mức độ ảnh hưởng đến biến đổi khí hậu. Mặc dù nồng độ của mê-tan trong khí quyển thấp hơn nhiều so với CO2, nhưng khả năng giữ nhiệt của nó lại cao gấp khoảng 80 lần trong khoảng thời gian 20 năm.

Các đại biểu tham dự hội thảo tuyên truyền, nâng cao nhận thức về giảm phát thải khí mê-tan tại tỉnh Đồng Tháp tháng 10-2025.
Các đại biểu tham dự hội thảo tuyên truyền, nâng cao nhận thức về giảm phát thải khí mê-tan tại tỉnh Đồng Tháp tháng 10-2025.

Ngoài ra, khí mê-tan khi kết hợp với các chất ô nhiễm khác trong không khí có thể tạo thành khí ô-zôn, gây hại cho sức khỏe con người và hệ sinh thái. Trong khi CO2 tồn tại trong bầu khí quyển hàng trăm năm, thì mê-tan chỉ phân rã sau khoảng một thập kỷ.

Do đó, nếu muốn hạn chế sự nóng lên toàn cầu trong thời gian ngắn, thì việc giảm lượng khí thải mê-tan sẽ mang lại hiệu quả cao hơn nhiều so với việc giảm CO2. Các nỗ lực quốc tế như Sáng kiến Cam kết Mê-tan Toàn cầu (Global Methane Pledge) đang được thúc đẩy nhằm cắt giảm 30% lượng khí mê-tan phát thải vào năm 2030 so với mức năm 2020, góp phần bảo vệ khí hậu và ổn định hệ sinh thái Trái đất.

Theo Quyết định số 942/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch hành động giảm phát thải khí mê-tan đến năm 2030, với mục tiêu giảm ít nhất 30% tổng lượng phát thải khí mê-tan vào năm 2030 so với năm 2020 trong các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, quản lý chất thải rắn, xử lý nước thải, khai thác dầu khí, khai thác than và tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch.

Tỉnh Đồng Tháp, với đặc trưng nông nghiệp và hệ thống sông ngòi dày đặc, là địa phương có lượng phát thải khí mê-tan đáng kể từ hoạt động chăn nuôi, trồng lúa nước, cũng như quản lý chất thải sinh hoạt. Trong lĩnh vực trồng trọt, canh tác lúa nước là nguồn phát thải CH4 lớn nhất, chiếm gần 70% lượng mê-tan của toàn lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất (AFOLU).

Ngoài ra, việc đốt rơm rạ và các phụ phẩm nông nghiệp ngoài đồng ruộng cũng là nguyên nhân gây phát thải đáng kể. Quá trình phân hủy yếm khí của chất hữu cơ trong điều kiện đất ngập nước là cơ chế chính sinh ra khí mê-tan. Các yếu tố như thời gian ngập nước trước vụ, chế độ tưới tiêu trong vụ và loại chất hữu cơ bón vào đất đều ảnh hưởng đến lượng phát thải khí nhà kính.

Cải thiện quản lý nước trong canh tác lúa qua các biện pháp như tưới khô ướt xen kẽ (AWD) hoặc rút nước giữa vụ giúp giảm đáng kể lượng CH4 sinh ra từ ruộng lúa ngập nước lâu ngày. Theo các nghiên cứu, kỹ thuật AWD có thể giảm 30% - 35% lượng phát thải mê-tan mà vẫn bảo đảm năng suất.

Bên cạnh đó, quản lý và xử lý phụ phẩm nông nghiệp là biện pháp quan trọng khác. Việc chấm dứt đốt rơm rạ, thay bằng thu gom và tái sử dụng để ủ phân compost, trồng nấm rơm hoặc sản xuất biochar không chỉ giảm phát thải mà còn cải thiện chất lượng đất và tăng tích lũy các-bon.

Chuyển đổi cơ cấu cây trồng cũng là hướng đi hiệu quả. Mô hình luân canh lúa - tôm hay chuyển từ lúa sang cây trồng cạn như: Sen, rau màu, cây công nghiệp ngắn ngày vừa phù hợp điều kiện địa phương vừa làm giảm đáng kể phát thải mê-tan.

Ví dụ, canh tác sen chỉ phát thải khoảng 1,1 tấn CO2tđ/ha/năm, thấp hơn gần 90% so với lúa truyền thống. Áp dụng kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp - như tái sử dụng phụ phẩm, tuần hoàn vật chất, chuyển hóa sinh khối thành năng lượng sạch - sẽ góp phần duy trì cân bằng các-bon và hướng đến sản xuất nông nghiệp xanh.

Trên thực tế, nhiều mô hình đã được áp dụng thành công tại Việt Nam. Dự án VnSAT do Ngân hàng Thế giới tài trợ đã triển khai kỹ thuật AWD và “1 phải, 5 giảm” trên 164.000 ha tại Đồng bằng sông Cửu Long. Tập đoàn Lộc Trời áp dụng tiêu chuẩn SRP về canh tác lúa bền vững, còn các dự án của Rikolto International Vietnam tập trung quản lý phụ phẩm và phát triển vùng nguyên liệu thích ứng biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, Chương trình “1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp” đang được Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các địa phương triển khai mạnh mẽ.

Các nghiên cứu của Cục biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cũng cho thấy hiệu quả rõ rệt của những giải pháp này. Việc vùi rơm rạ trước vụ hơn 30 ngày giúp giảm tới 80% phát thải CH4 so với đốt ngoài đồng. Mô hình lúa - tôm giúp giảm khoảng 48%, còn tưới AWD giảm từ 30% - 35%. Đây là những hướng đi cụ thể, khả thi và có tính lan tỏa cao trong bối cảnh sản xuất nông nghiệp của tỉnh.

GIẢM PHÁT THẢI KHÍ MÊ-TAN TRONG LĨNH VỰC CHĂN NUÔI

Chăn nuôi là một trong những nguồn phát thải khí mê-tan lớn của ngành nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp chỉ đứng sau canh tác lúa nước. Hai nguồn phát thải chính trong chăn nuôi là quá trình tiêu hóa dạ cỏ của gia súc nhai lại như bò, trâu, dê và quá trình phân hủy chất thải vật nuôi trong điều kiện yếm khí.

Trong dạ cỏ của gia súc, hệ vi sinh vật phân giải thức ăn tạo ra khí mê-tan, phần lớn được thải ra qua hiện tượng ợ hơi. Bên cạnh đó, khi phân và nước tiểu được lưu trữ hoặc xử lý trong môi trường kín, quá trình lên men yếm khí sẽ tiếp tục sinh ra một lượng lớn mê-tan, góp phần đáng kể vào tổng lượng khí nhà kính của quốc gia.

Các nguồn phát thải mê-tan lớn của tỉnh Đồng Tháp.
Các nguồn phát thải mê-tan lớn của tỉnh Đồng Tháp.

Các biện pháp kỹ thuật được khuyến nghị gồm cải thiện khẩu phần ăn của vật nuôi để giảm sinh khí mê-tan trong dạ cỏ, tăng hiệu quả sử dụng thức ăn và bổ sung các chế phẩm sinh học, phụ gia ức chế quá trình sinh khí. Chất thải chăn nuôi phải được thu gom, xử lý qua hầm biogas hoặc ủ compost để tạo phân hữu cơ. Ngoài ra, mô hình kinh tế tuần hoàn trong chăn nuôi - kết hợp sản xuất, tái sử dụng phụ phẩm và sản xuất năng lượng sinh học - cũng là hướng đi bền vững giúp giảm phát thải.

Các nghiên cứu cho thấy việc áp dụng đồng bộ các biện pháp này có thể giúp giảm từ 8% - 45% lượng khí mê-tan phát thải trong chăn nuôi, đồng thời giảm ô nhiễm, cải thiện năng suất và tạo nguồn năng lượng sạch phục vụ sản xuất. Đây là hướng đi quan trọng nhằm xây dựng nền nông nghiệp phát thải thấp, hiệu quả và thân thiện với môi trường.

GIẢM PHÁT THẢI KHÍ MÊ-TAN TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN, XỬ LÝ NƯỚC THẢI

Trong lĩnh vực này, Đồng Tháp đã đẩy mạnh phân loại rác tại nguồn ở khu dân cư và chợ truyền thống, nhất là rác hữu cơ chiếm tỷ lệ cao. Việc ủ phân compost từ rác thực phẩm hoặc phế phẩm nông nghiệp không chỉ giảm phát thải mê-tan từ chôn lấp mà còn tạo nguồn phân bón hữu cơ phục vụ sản xuất sạch.

Với lợi thế về chăn nuôi và trồng trọt, tỉnh có thể mở rộng mô hình hầm biogas hộ gia đình và cụm trang trại, tận dụng chất thải chăn nuôi để sản xuất năng lượng sinh học, hạn chế việc để phân ướt phân hủy tự do ngoài trời, giảm ô nhiễm và tiết kiệm chi phí nhiên liệu.

Đồng hành cùng địa phương, thời gian qua, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đồng Tháp đã tập trung làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức và tổ chức nhiều hội thảo tư vấn về phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, nông nghiệp hữu cơ...

Qua đó, nâng cao nhận thức của cộng đồng và người dân về những lợi ích thiết thực khi tham gia thực hiện các mô hình trên, góp phần đưa Đồng Tháp phát triển nhanh, vượt bậc, có chất lượng sống tốt.

Ngoài ra, Đồng Tháp đã kiểm soát tốt nước thải sinh hoạt và công nghiệp, ưu tiên đầu tư hệ thống xử lý tập trung có thu hồi khí mê-tan, đặc biệt tại các đô thị như: Mỹ Tho, Cao Lãnh và Sa Đéc. Tỉnh cũng nên thí điểm thu hồi khí tại bãi chôn lấp rác lớn và chuyển đổi dần sang mô hình đốt rác phát điện hoặc sản xuất nhiên liệu RDF.

Tuy nhiên, quá trình triển khai vẫn gặp nhiều thách thức và rào cản. Tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn, quy mô đất đai nhỏ lẻ, thiếu lao động, rủi ro thời tiết và hiệu quả kinh tế chưa cao khiến người dân khó áp dụng đồng bộ các kỹ thuật mới. Thị trường tiêu thụ sản phẩm “các-bon thấp” còn hạn chế, khiến lợi ích ngắn hạn chưa rõ ràng.

Để triển khai hiệu quả, tỉnh cần ban hành cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư công nghệ tái chế, xử lý chất thải hữu cơ, đồng thời huy động hỗ trợ quốc tế trong khuôn khổ Sáng kiến giảm phát thải mê-tan toàn cầu (Global Methane Emissions Reduction Initiative).

Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, giáo dục cộng đồng về lợi ích của phân loại rác, tái chế và sử dụng năng lượng sinh học cần được chú trọng, ước mơ giúp Đồng Tháp trở thành địa phương tiên phong vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong giảm phát thải khí mê-tan.

Đối với Việt Nam cần đầu tư nghiên cứu dài hạn, xây dựng hệ thống kiểm kê và chứng nhận phát thải, hoàn thiện khung pháp lý về tín chỉ các-bon và phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ giảm phát thải. Với tỉnh Đồng Tháp, cần đẩy mạnh các chương trình giảm phát thải, đưa ra lộ trình cấm đốt phụ phẩm nông nghiệp, nâng cao năng lực cho cán bộ và hợp tác xã.

Đối với doanh nghiệp và người dân, cần chủ động áp dụng kỹ thuật canh tác lúa phát thải thấp, xử lý phụ phẩm hợp lý, xây dựng thương hiệu gạo “phát thải thấp” và sẵn sàng tham gia thị trường tín chỉ các-bon.

Tóm lại, giảm phát thải khí mê-tan trong trồng trọt, chăn nuôi và xử lý chất thải là xu hướng tất yếu và cấp thiết, góp phần giúp Việt Nam nói chung và tỉnh Đồng Tháp nói riêng thực hiện cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu, đồng thời hướng tới một nền nông nghiệp xanh, bền vững và có trách nhiệm với môi trường. Sự chung tay của Nhà nước, địa phương, doanh nghiệp và nông dân sẽ là yếu tố quyết định để đạt được mục tiêu phát thải thấp, bảo vệ khí hậu và phát triển nông nghiệp sinh thái trong tương lai.

TIỂU LAM

.
.
.