Vòng tuần hoàn xanh trong phát triển nghề nuôi lươn ở Hồng Ngự
Nhiều năm nay, nghề nuôi lươn ở phường Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp và một số địa phương biên giới phía Bắc của tỉnh Đồng Tháp là sinh kế quan trọng của hàng ngàn hộ dân nông thôn. Nhờ tận dụng diện tích nhỏ quanh nhà, nghề này giúp tạo việc làm, nâng thu nhập và khai thác hiệu quả nguồn lao động nhàn rỗi. Tuy nhiên, đằng sau lợi ích đó là những khó khăn kéo dài trong mô hình nuôi truyền thống: Môi trường nước thay đổi liên tục, lươn dễ bệnh, chi phí chăm sóc lớn, năng suất không ổn định.
Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu về một phương pháp nuôi lươn mới giúp tiết kiệm nước, giảm rủi ro và tạo sản phẩm an toàn hơn. Chính vì thế, Sở Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã tham mưu UBND tỉnh phê duyệt, triển khai Dự án “Ứng dụng công nghệ tuần hoàn trong ương giống và nuôi lươn đồng thương phẩm quy mô nông hộ tại phường Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp”, do Tiến sĩ Nguyễn Văn Triều, Trường Đại học Cần Thơ chủ trì, để giải quyết các nhu cầu cấp thiết ấy.
TỪ MÔ HÌNH TRUYỀN THỐNG ĐẾN YÊU CẦU ĐỔI MỚI
Với những hộ dân như anh Nguyễn Thanh Vũ, người có nhiều năm gắn bó với nghề ương lươn giống tại phường Hồng Ngự, những nỗi vất vả trong mô hình truyền thống gần như đã trở thành chuyện thường ngày. Anh Vũ kể: “Lúc trước, tôi nuôi lươn giống bằng bể, nhưng khi nuôi lươn giống với mật độ cao, việc thường xuyên kiểm soát môi trường nước sạch cho lươn là yếu tố quan trọng nhất.
![]() |
| Hệ thống xử lý nước tuần hoàn giúp nông dân giảm chi phí đầu tư, giảm thiểu ô nhiễm môi trường nâng cao chất lượng cho sản phẩm lươn thương phẩm. |
Nước trong bể nuôi phải đảm bảo được giữ sạch liên tục, do đó mỗi ngày tôi phải thay nước 2 - 3 lần, chỉ cần thay nước trễ là lươn giống sẽ bị yếu. Nhưng thay nước liên tục cũng là một bất lợi bởi môi trường sống của lươn thay đổi, lươn dễ bị sốc, giảm ăn và dễ bệnh”.
Tỷ lệ hao hụt là câu chuyện khiến người nuôi lươn luôn thấp thỏm. Bình thường, mỗi vụ lươn giống kéo dài khoảng 3 tháng, nhưng tỷ lệ sống chỉ đạt 60% - 70% đã gọi là “mừng lắm”. Nguồn nước thải từ các bể nuôi, khi xả ra môi trường, cũng tạo áp lực lớn lên kinh, rạch nông thôn. Cùng với đó, việc phụ thuộc vào thuốc kháng sinh để xử lý bệnh khiến lươn thương phẩm khó đảm bảo an toàn thực phẩm, làm giảm giá trị đầu ra.
Xuất phát từ những khó khăn trong nghề nuôi lươn truyền thống, năm 2023, Sở KH&CN Đồng Tháp cũ, Phòng Kinh tế và Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp TP. Hồng Ngự (trước đây) đặt hàng Trường Đại học Cần Thơ triển khai mô hình nuôi lươn tuần hoàn tại một số hộ dân nuôi lươn ở địa phương. Các mô hình này đến nay đem lại kết quả tích cực.
GIẢI PHÁP KHOA HỌC CHO MÔ HÌNH NUÔI LƯƠN SẠCH
Khác với phương pháp nuôi truyền thống, mô hình lươn tuần hoàn sử dụng hệ thống lọc khép kín gồm: Bể lắng - bể lọc cơ học - bể lọc vi sinh - bể chứa. Nước thải trong quá trình nuôi không bị xả ra môi trường hằng ngày, mà được đưa qua hệ thống xử lý rồi quay lại các bể nuôi.
|
Câu chuyện về mô hình nuôi lươn tuần hoàn ở Hồng Ngự hôm nay không chỉ là câu chuyện của những bể nuôi xanh, mà đó còn là câu chuyện của sự đổi thay tư duy, của việc mạnh dạn đưa khoa học công nghệ vào nông nghiệp, giúp người dân sẵn sàng kết nối với những tri thức mới để làm chủ sinh kế. Giữa vùng biên giới đầy nắng gió, vòng tuần hoàn nước trong từng bể nuôi lươn vùng Hồng Ngự đang mở ra một vòng tuần hoàn khác - vòng tuần hoàn của hy vọng, của tăng trưởng, của những mầm xanh bền vững trong nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp. |
Chất thải được giữ lại tại bể lắng và được vi sinh vật cộng sinh trong môi trường nuôi phân hủy đạm dư thừa, giúp môi trường nuôi luôn ổn định. Các giá thể nhựa và dây ny-lông trong bể tạo nơi trú ẩn cho lươn; đồng thời hỗ trợ hệ vi sinh phát triển mạnh.
Chỉ với một hệ thống này, tần suất thay nước giảm từ hằng ngày xuống còn 1 - 2 lần mỗi vụ, tiết kiệm rất nhiều công lao động và chi phí nước. Quan trọng hơn, môi trường nuôi ổn định giúp lươn giảm sốc khi không còn thay nước thường xuyên, lươn ít bệnh, phát triển đồng đều, từ đó tăng mạnh tỷ lệ sống.
Anh Nguyễn Thanh Vũ chia sẻ: “Từ ngày chuyển sang kỹ thuật nuôi lươn tuần hoàn, tỷ lệ sống của lươn giống đạt trên 90%, cao hơn nhiều so với trước. Công chăm sóc nhẹ hơn, môi trường nuôi ổn định nên lươn khỏe, mau lớn”.
Sau mỗi vụ nuôi khoảng 3 tháng, gia đình anh Vũ đạt doanh thu hơn 120 - 150 triệu đồng nhờ lươn giống đồng đều và giá tốt hơn. Đầu tư cho hệ thống ban đầu khoảng 20 - 30 triệu đồng, nhưng theo anh Vũ đây là đầu tư dài hạn rất đáng.
Dưới góc nhìn của nhà khoa học, Tiến sĩ Nguyễn Văn Triều, Chủ nhiệm dự án khẳng định, công nghệ tuần hoàn ra đời nhằm giải quyết 2 “điểm nghẽn” lớn của nghề nuôi lươn truyền thống là sử dụng quá nhiều nước và sự phụ thuộc vào kháng sinh do lươn dễ mắc bệnh. Mục tiêu cốt lõi của dự án là giúp nông dân giảm thiểu ô nhiễm môi trường thông qua việc hạn chế xả thải; đồng thời bảo đảm lươn thương phẩm sạch, không tồn dư kháng sinh trong lươn thương phẩm.
Do đó, nhóm nghiên cứu đã tập trung thiết kế, cải tiến hệ thống lọc tuần hoàn khép kín, xử lý nước ngay trong bể nuôi. Sau hơn 1 năm triển khai, các mô hình cho thấy hiệu quả rõ rệt: Tốc độ tăng trưởng ổn định, tỷ lệ sống cao và lươn khỏe mạnh mà không cần dùng kháng sinh. Tiến sĩ Triều nhấn mạnh, đây là mô hình lý tưởng, sạch và an toàn, đặc biệt phù hợp với các nông hộ có diện tích nhỏ tại khu dân cư, phù hợp mô hình nông nghiệp thông minh.
ĐỂ NÔNG DÂN GẮN BÓ VỚI NGHỀ NUÔI LƯƠN
Ông Nguyễn Văn Thoàn, một trong những hộ tham gia mô hình từ những ngày đầu tại phường Hồng Ngự cho biết: “Vụ đầu tiên nuôi thử 4 bể đã mang lại kết quả tích cực. Sau đó, tôi đầu tư thêm 4 bể để mở rộng quy mô.
![]() |
| Chất thải trong quá trình nuôi lươn sẽ được giữ lại tại bể lọc vi sinh, vi sinh vật phân hủy đạm dư thừa còn lại trong nước, từ đó giúp môi trường nuôi luôn ổn định. |
Nuôi lươn tuần hoàn giảm công chăm sóc; đặc biệt, ở mô hình tuần hoàn, người nuôi dễ quan sát lươn, thu hoạch linh hoạt theo thời điểm thị trường có giá cao, không phải thu hoạch ồ ạt như mô hình truyền thống. Lươn lớn đồng đều, sạch và đẹp, thương lái rất thích”.
Tại Bình Lý Hội quán, phường Hồng Ngự, anh Phạm Văn Lượm, Chủ nhiệm Hội quán cho biết: “Từ năm 2024, mô hình được thực hiện tại Hội quán và nhận được sự quan tâm đặc biệt của các thành viên. Mô hình tiết kiệm nước, giảm công lao động, giảm chi phí, quan trọng nhất là lươn khỏe và ít bệnh. Bà con trong hội quán rất thích và mong muốn được nhân rộng”.
Dù đạt nhiều kết quả nổi bật, song mô hình vẫn còn một số hạn chế, chủ yếu là chi phí điện vận hành motor bơm nước. Tiến sĩ Triều cho biết: “Nhóm nghiên cứu đang đề xuất một số giải pháp công nghệ mới như: Kết hợp năng lượng mặt trời để giảm chi phí điện; ứng dụng IoT trong tắt - mở motor theo khung giờ; tích hợp cảm biến chất lượng nước giúp người nuôi giám sát trên điện thoại; tiếp tục tối ưu công nghệ lọc để giảm chi phí vận hành. Những hướng đi này không chỉ giúp mô hình ngày càng hoàn thiện, mà còn tạo nền tảng cho chuyển đổi số trong nông nghiệp thủy sản”.
Mô hình nuôi lươn tuần hoàn không chỉ là đổi mới về phương pháp kỹ thuật, mà còn là minh chứng rõ nét cho việc khoa học công nghệ tham gia giải quyết các “điểm nghẽn” của nông nghiệp nông thôn: Giảm ô nhiễm môi trường, tiết kiệm tài nguyên nước, nâng cao năng suất, chất lượng, tăng thu nhập cho người nông dân.
MỸ LÝ


về đầu trang