GS Huỳnh Như Phương: 'Thiếu nghiên cứu về văn học miền Nam trước 1975'

Thứ Tư, 03/12/2025, 15:28 (GMT+7)
Theo dõi Báo Đồng Tháp trên

Giáo sư Huỳnh Như Phương nhận định làng văn thiếu công trình nghiên cứu tác phẩm miền Nam trước năm 1975 dù nhiều cuốn có giá trị cao.

Tại hội thảo khoa học Thành tựu nghiên cứu, phê bình văn học tại TP. Hồ Chí Minh từ 1975 đến nay hôm 29-11, giáo sư Huỳnh Như Phương nhận định do tính chất phức tạp liên quan đến lịch sử nên đề tài về văn học miền Nam trước 1975 khó nghiên cứu hơn so với các lĩnh vực.

Ngoài các công trình nghiên cứu văn học Việt Nam trước năm 1975 do giáo sư Hoàng Như Mai chủ biên, Khoa Văn học Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia TP. Hồ CHí Minh mới ghi nhận ba đề tài cấp Bộ và cấp Nhà nước, nhưng chưa thật sự hoàn thiện.

Giáo sư Huỳnh Như Phương ở hội thảo. Ảnh: Thu Giang

Giáo sư Phương cho rằng các nhà nghiên cứu cần xem văn học miền Nam 1954 - 1975 là tiếng nói, tâm tư của các văn nghệ sĩ về dân tộc và đất nước. Trước 1945, các hiện tượng như Thơ Mới và Tự lực văn đoàn - tồn tại song song với dòng chủ lưu văn học cách mạng - từng bị quy là "văn học thực dân", lúc đó, có ý kiến cho rằng các tác phẩm này làm thoái lui tinh thần thanh niên vì không phù hợp với định hướng văn nghệ thời điểm đó.

Những biến động chính trị xã hội ở miền Nam đã thúc đẩy nghệ sĩ sáng tác nhiều tác phẩm mang tính nhân văn, đề cao vẻ đẹp và phẩm chất của con người. Chủ đề thân phận con người trong chiến tranh là tiêu điểm của văn xuôi thời kỳ này.

Ví dụ, truyện Nhánh rong phiêu bạt của tác giả Võ Hồng xoay quanh cuộc đời của bé Thúy, một cô bé mồ côi cha mẹ do chiến tranh và phải lưu lạc, làm đủ nghề để sinh sống. Giáo sư Huỳnh Như Phương cho rằng Võ Hồng là nhà văn có tư tưởng nhân đạo, tôn vinh văn hóa dân tộc, đồng thời cho thấy các tác phẩm văn học miền Nam lúc đó hướng ngòi bút về những số phận bất hạnh trong chiến tranh.

Tiểu thuyết "Vòng tay học trò", lần đầu xuất bản năm 1964, từng "gây bão" ở văn đàn miền Nam. Sách tái bản năm 2021, do Nhã Nam phối hợp Nhà xuất bản Hội Nhà văn phát hành. Ảnh: Nhã Nam

Đồng quan điểm, nhà nghiên cứu Võ Văn Nhơn cho rằng tiểu thuyết, truyện ngắn miền Nam khắc họa thân phận con người địa phương, như phận người nhỏ bé ở nông thôn, người di cư từ Bắc vào Nam, những nạn nhân chịu chấn thương tâm lý do gia đình ly tán, mất người thân vì bom đạn. Song, còn một số tác phẩm mang tính giáo huấn, định hướng suy nghĩ người đọc.

Ngoài văn học hiện đại miền Nam, văn học dân gian TP Hồ Chí Minh được xem là một bộ phận đặc thù, giàu sức sống trong kho tàng văn học Nam Bộ. Trái với quan niệm cho rằng văn học dân gian chỉ tồn tại ở nông thôn, Tiến sĩ La Mai Thi Gia nhấn mạnh rằng TP Hồ Chí Minh vẫn hình thành dòng văn học này, gồm ca dao, tục ngữ, truyền thuyết đô thị.

Trải qua lịch sử đô thị hóa và di dân, văn học dân gian TP Hồ Chí Minh không những không mai một mà còn được tái tạo, thích ứng với đời sống hiện đại. Việc lưu giữ và sáng tạo các thể loại, phát triển từ truyền miệng sang "truyền mạng", xuất hiện trên các gameshow, nền tảng YouTube hay các câu lạc bộ hát dân ca, kể chuyện online. Ca dao đô thị tồn tại như câu cửa miệng, phản ánh ký ức và trải nghiệm của người dân địa phương. Ví dụ: "Ăn quận Năm, nằm quận Ba, la cà quận Nhất, cướp giựt quận Tư", hay "Sài Gòn có bến Chương Dương, có dinh Độc Lập, có đường Tự Do".

Bên cạnh các tham luận về thành tựu nghiên cứu văn học nghệ thuật TP Hồ Chí Minh, Tiến sĩ Vũ Thị Thanh Trâm mang đến báo cáo công tác sưu tầm tư liệu Hán Nôm của Phòng Nghiên cứu Hán Nôm thông qua phần giới thiệu bản in năm 1820 Tứ thư tiết yếu - Đại học của Bùi Huy Bích.

Hội thảo do Khoa Văn học và Ngôn ngữ học thuộc Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh tổ chức, gồm 27 tham luận. PGS.TS, nhà phê bình văn học Đoàn Lê Giang, PGS.TS Trần Thị Phương Phương và PGS.TS Lê Quang Trường chủ trì sự kiện.

Theo vnexpress.net

Bình luận