Đại tướng Đoàn Khuê - Người cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo, chỉ huy xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam

Cập nhật ngày: 29/10/2023 06:07:43

http://baodongthap.com.vn/database/video/20231029063457daituong2.mp3

 

ĐTO - Đại tướng Đoàn Khuê (bí danh Võ Tiến Trình) sinh ngày 29/10/1923, tại làng Gia Đẳng, xã Triệu Tân (nay là xã Triệu Lăng), huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.


Đại tướng Đoàn Khuê (ảnh tư liệu)

Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất quê hương giàu truyền thống yêu nước, sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng, khi mới 16 tuổi (năm 1939), đồng chí Đoàn Khuê đã thoát ly gia đình tham gia phong trào Thanh niên phản đế ở Trường Tiểu học Trường Xuân, sau đó làm Bí thư Thanh niên phản đế của phủ Triệu Phong. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Quảng Trị, Đoàn Thanh niên phản đế Triệu Phong rải truyền đơn kêu gọi Nhân dân hưởng ứng khởi nghĩa Bắc Sơn đánh đuổi Nhật - Pháp. Ngày 30/10/1940, đồng chí Đoàn Khuê bị thực dân Pháp bắt, trong suốt 5 năm (1940 - 1945) bị giam cầm, đày ải với những đòn tra tấn tàn bạo của kẻ thù từ nhà lao Quảng Trị đến nhà đày Buôn Ma Thuột, nhưng đồng chí luôn tỏ rõ chí khí kiên cường, bất khuất. Trong nhà tù, đồng chí Đoàn Khuê tham gia thành viên “Ủy ban vận động cách mạng” được giao nghiên cứu, tổ chức các cuộc vượt ngục cho cán bộ cốt cán của Đảng. Giai đoạn 1942 - 1944, đồng chí Đoàn Khuê cùng Ban lãnh đạo “Ủy ban vận động cách mạng” trong nhà tù đã tổ chức thành công nhiều cuộc đấu tranh phản đối hành động đánh đập dã man, đòi cải thiện sinh hoạt đối với tù nhân và tổ chức được nhiều đợt vượt ngục thành công.

Tháng 5/1945, sau khi rời khỏi ngục tù đế quốc, đồng chí Đoàn Khuê được tổ chức phân công về xây dựng cơ sở cách mạng ở Quảng Bình và đã đóng góp tích cực vào cuộc khởi nghĩa giành chính quyền về tay Nhân dân tỉnh Quảng Bình. Tháng 6/1945, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và được cử làm Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh tỉnh Quảng Bình.

Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Xứ ủy và chính quyền Trung Bộ thành lập Ủy ban quân chính Khu C, gồm lực lượng vũ trang Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, do đồng chí Chu Huy Mân làm Chủ tịch, đồng chí Đoàn Khuê làm Ủy viên quân sự. Khi thực dân Pháp gây hấn ở Sài Gòn, Nhân dân Nam bộ và Nam Trung bộ vùng lên kháng chiến, đồng chí Đoàn Khuê được giao nhiệm vụ chỉ huy đơn vị hoạt động ở địa bàn Liên khu 5; sau đó lần lượt được cử giữ các chức vụ Chính trị viên, Bí thư Hiệu ủy Trường Lục quân Quảng Ngãi; Chính trị viên, Bí thư Đảng ủy các trung đoàn 69, 73, 78,126, 84; Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Trung đoàn 108, rồi Phó Chính ủy Sư đoàn 305 - sư đoàn chủ lực đầu tiên ở Nam Trung Bộ. Các trung đoàn, sư đoàn này phần lớn hoạt động trên các địa bàn vô cùng khó khăn và ác liệt. Là một cán bộ tận tụy, sâu sát cơ sở, đồng chí đã cùng cấp ủy lãnh đạo các đơn vị hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Đầu năm 1954, trên cương vị Chính ủy Trung đoàn 108 - đơn vị chủ lực cơ động đầu tiên của Liên khu 5, đồng chí Đoàn Khuê cùng Bộ Chỉ huy Chiến dịch, Ban Chỉ huy Trung đoàn với những sáng kiến, quyết định kịp thời, chính xác, chỉ đạo các lực lượng tiêu diệt đồn Măng Đen - cứ điểm kiên cố, trận then chốt của chiến dịch giải phóng Kon Tum. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Khu 5 là địa bàn chiến lược quan trọng của chiến trường miền Nam Việt Nam, nơi quân viễn chinh Mỹ đổ vào đầu tiên. Với vai trò Phó Chính ủy Quân khu, đồng chí Đoàn Khuê cùng các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy Khu 5, Quân khu 5 đã bám sát chiến trường, xây dựng ý chí chiến đấu cho các lực lượng vũ trang quân khu “quyết đánh, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược” và Khu 5 trở thành địa phương “đi đầu diệt Mỹ với những trận đánh, chiến dịch nổi tiếng trong lịch sử: Núi Thành (26/5/1965), Ba Gia (29/5 - 20/7/1965), Vạn Tường (18/8 - 19/8/1965), Plei Me (19/10 - 26/11/1965), Đồng Dương (17/11 - 18/12/1965)...

Tháng 7/1974, trong trận đánh Nông Sơn - Trung Phước, đồng chí Đoàn Khuê chỉ đạo thực hiện chiến thuật “bao vây đánh lấn, tấn công dứt điểm”. Chiến thắng Nông Sơn -Trung Phước tạo nên thế và lực mới cho ta trong những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ trên chiến trường Khu 5, có lòng tin sắt đá vào đường lối đánh Mỹ, có tầm nhìn chiến lược, trong chiến dịch Xuân 1975, đồng chí xử lý nhiều tình huống phức tạp, quyết đoán, sắc sảo, góp phần quan trọng vào thắng lợi to lớn của chiến dịch giải phóng Đà Nẵng, tạo đà cho cuộc tổng tiến công giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975.


Khu nhà lưu niệm Đại tướng Đoàn Khuê tại Thôn 1, xã Triệu Lăng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (nguồn: Báo Quảng Trị)

Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (12/1976), đồng chí Đoàn Khuê được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được bổ nhiệm làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu, Bí thư Đảng ủy Quân khu 5. Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của đồng chí Đoàn Khuê đã đoàn kết thành một khối thống nhất, lãnh đạo lực lượng vũ trang thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, trong đó có việc “giải quyết FULRO”, góp phần ổn định an ninh chính trị, khắc phục hậu quả chiến tranh, tăng cường quốc phòng, phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn Quân khu 5. Đối với nhiệm vụ giúp nước bạn Campuchia, năm 1979, Quân khu 5 đảm nhiệm một hướng chiến lược quan trọng và đồng chí Đoàn Khuê trực tiếp làm Tư lệnh chiến dịch, khẩn trương chuẩn bị lực lượng và chỉ huy chiến dịch đều giành thắng lợi.

Từ 4/1983 - 11/1986, đồng chí Đoàn Khuê được giao nhiệm vụ làm Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh V, Phó trưởng Đoàn chuyên gia giúp nước bạn Campuchia. Từ 12/1986 - 1/1998, đồng chí Đoàn Khuê được Đảng và Nhà nước phân công giữ các trọng trách: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Bộ Tư lệnh 719, Trưởng ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia giúp nước bạn Campuchia, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ủy viên Thường vụ Đảng ủy rồi Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương. Đồng chí Đoàn Khuê là Ủy viên Trung ương Đảng khoá IV đến khóa VIII; là ủy viên Bộ Chính trị các khóa VI, VII, VIII; là đại biểu Quốc hội các khóa VII, VIII, IX và X. Đồng chí được Đảng và Nhà nước phong quân hàm Thiếu tướng năm 1974 và Đại tướng năm 1990.

Trong công cuộc đổi mới đất nước, đồng chí Đại tướng Đoàn Khuê cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng đề xuất nhiều chủ trương đúng đắn và tổ chức thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đổi mới, chăm lo xây dựng Quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại”, có nhiều đóng góp trong chỉ đạo công tác tổng kết Đảng lãnh đạo chiến tranh cách mạng. Đại tướng Đoàn Khuê để lại nhiều ấn tượng đẹp cho cán bộ, chiến sĩ với phong cách làm việc dân chủ, khoa học, sâu sát cơ sở, xứng đáng là người lãnh đạo, chỉ huy xuất sắc, có uy tín lớn của Quân đội ta. Đồng chí là tấm gương tiêu biểu để các thế hệ cán bộ, chiến sĩ trong toàn lực lượng vũ trang noi theo.

Đại tướng Đoàn Khuê từ trần ngày 16/1/1999, hưởng thọ 76 tuổi. Đồng chí đã vinh dự được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều huân, huy chương cao quý khác. Truyền thống cách mạng của quê hương Quảng Trị và gia đình đã hun đúc, rèn luyện đồng chí Đại tướng Đoàn Khuê trở thành người cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo, chỉ huy xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đánh giá công lao của đồng chí, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã khẳng định: “Trải qua nhiều cương vị khác nhau, dù ở đâu, làm gì, đồng chí cũng luôn luôn đem hết sức mình cống hiến cho Đảng và Nhân dân, đặt lợi ích chung của cách mạng, của quân đội lên trên lợi ích cá nhân, luôn luôn trau dồi kiến thức, sâu sát cơ sở, quan tâm tổng kết thực tiễn, giữ vững tính đảng, tính nguyên tắc, phấn đấu hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao”.

Phú Trọng

< Trở về trang trước
Gửi bình luận của bạn