Việt Nam
Những danh nhân tuổi Dần
Cập nhật ngày: 01/02/2022 10:35:34
Trong lịch sử dân tộc ta, có lẽ do sự trùng hợp ngẫu nhiên mà xuất hiện những nhân tài: có người có tài trị nước kinh bang tế thế, có người là nhà bác học, nhà sử học... sinh nhằm năm Dần. Với vai trò, ý nghĩa lớn lao, đa dạng của loài Hổ, tuổi Hổ thường được coi là tuổi đầy mạnh mẽ, nhanh nhạy, tài hoa, may mắn và thành đạt. Ngày Xuân, xin được kể về một số bậc tiền nhân tuổi Dần đã có nhiều đóng góp cho sự thăng hoa của dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh (1890-1969)
Anh hùng Giải phóng dân tộc, lãnh tụ cách mạng, Chủ tịch nước, Danh nhân văn hóa thế giới, quê Nghệ An. Bản lĩnh, thông minh, nặng lòng ái quốc, theo học ở Huế, dạy học ở Phan Thiết rồi năm 1911 xuất dương, tìm đường cứu nước. Qua nhiều quốc gia châu Âu, châu Mỹ, châu Á, làm nhiều nghề, tham gia các tổ chức tiến bộ ở Pháp, Nga, Trung Quốc và Quốc tế Cộng sản với mục đích giác ngộ, lãnh đạo cách mạng, đấu tranh cho độc lập, tự do của Việt Nam. Ngày 3/2/1930, thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương. Đầu năm 1941, thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân và Khu giải phóng Việt Bắc. Tháng 8/1945, chỉ đạo tổng khởi nghĩa toàn quốc. Ngày 2/9/1945, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và trở thành Chủ tịch nước đến khi qua đời năm 1969. Bằng tài năng lãnh đạo phi thường kết hợp với lối sống nhân văn, giản dị, gần gũi, Bác được toàn dân mến trọng, ngưỡng mộ và là người có công lớn nhất trong sự nghiệp giành độc lập, xây dựng và phát triển nước Việt Nam hiện đại. Không chỉ là lãnh tụ cách mạng kiệt xuất, Chủ tịch nước Việt Nam đầu tiên, Bác còn là nhà thơ, nhà báo, nhà tư tưởng lớn và năm 1987 được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới. Tôn vinh Hồ Chí Minh là “Anh hùng Giải phóng dân tộc Việt Nam - Nhà văn hóa kiệt xuất”. Tạp chí TIME của Mỹ bầu chọn Hồ Chí Minh là 1 trong 100 nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong thế kỷ XX.
Trần Thái Tông (1218-1277)
Trần Thái Tông sinh năm Mậu Dần-1218, là vị vua đầu tiên của nhà Trần, tên thật là Trần Bồ, sau đổi thành Trần Cảnh. Ông còn là nhà nghiên cứu Phật học, nhà thơ. Làm vua từ năm 7 tuổi (năm 1225), ở ngôi 32 năm, làm Thái Thượng hoàng 19 năm, trước khi truyền ngôi cho con là Thái tử Trần Hoảng (sau là Vua Trần Thánh Tông). Ông đã lãnh đạo nhân dân Đại Việt chống lại cuộc xâm lược lần thứ nhất của quân Nguyên Mông. Với thắng lợi vẻ vang lưu truyền sử sách, đức vua Trần Thái Tông trở thành một vị minh quân. Ông còn được sử sách Phật giáo tôn xưng như bậc Thiền sư. Qua đời vào năm 1277, thọ 59 tuổi, Trần Thái Tông để lại cho đời sau một số tác phẩm như: Khóa hư lục, Thiền tông chỉ nam, Lục thời sám hối khoa nghi...
Ngô Thì Nhậm (1746-1803)
Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803)
Ngô Thì Nhậm sinh năm Bính Dần, danh sĩ thời Lê mạt và Tây Sơn, quê Hà Nội. Đa tài, nhanh nhạy, thạo việc chính trị, quân sự và ngoại giao, năm 1775 đỗ tiến sĩ, làm quan thăng tới Hữu Thị lang Bộ Công. Đến thời Tây Sơn, được vua Quang Trung trọng dụng, trao nhiều việc lớn và phong tới Tả Thị lang Bộ Lại. Ông còn là tác giả của nhiều công trình giá trị về chính sự, đối ngoại, lịch sử, văn thơ và tôn giáo.
Lê Văn Hưu (1230 - 1322)
Lê Văn Hưu sinh năm Canh Dần, danh sĩ, sử gia thời Trần, quê Thanh Hóa. Nổi tiếng uyên thâm và giàu chí tiến thủ, đỗ bảng nhãn năm 17 tuổi, làm quan hình rồi thăng tới Thượng thư Bộ Binh. Đến đời Trần Thánh Tông, được sung chức Học sĩ Viện Hàn lâm kiêm Gấm tu viện Quốc sử, đảm trách biên soạn bộ Đại Việt sử ký đồ sộ (gồm 30 quyển về lịch sử nước ta trước đó và được soạn xong vào năm 1272). Ông còn là người thầy uy tín, dạy học nhiều hoàng thân, tướng lĩnh nhà Trần.
Phan Huy Chú (1782 - 1840)
Sinh năm Nhâm Dần, danh sĩ thời Nguyễn, quê Hà Tĩnh. Thông tuệ, hiếu học, giỏi ứng đối, làm Biên tu ở Viện Hàn lâm rồi thăng tới Tư vụ Bộ Công. Thời kỳ 1824 - 1833, nhiều lần được cử đi sứ Trung Quốc và các nước Đông Nam Á. Là một học giả và nhà ngoại giao lớn, ông để lại những công trình giá trị về lịch sử, địa lý, văn hóa, đối ngoại, quân sự, luật lệ. Đặc biệt, bộ Lịch triều hiến chương loại chí gồm 49 quyển của ông soạn xong năm 1821 được coi như bộ bách khoa toàn thư đầu tiên ở Việt Nam.
Đinh Công Tráng (1842-1887)
Sinh năm Nhâm Dần, danh tướng kháng Pháp, quê Hà Nam. Khảng khái, dũng cảm mà nhẫn nại, mưu lược, năm 1884 chiêu tập nghĩa quân, xây dựng chiến khu Ba Đình (Thanh Hóa), kiên cường chống Pháp, lập nhiều chiến công vang dội khiến địch thất điên bát đảo. Bị đàn áp mạnh, thành lũy vỡ, ông rút vào Nghệ An và hy sinh ngày 5/10/1887.
Trần Cao Vân (1866-1916)
Sinh năm Bính Dần, thủ lĩnh kháng Pháp, quê Quảng Nam. Năng động, khí phách, quyết tâm chống Pháp, năm 1886 vào tu tại chùa Cổ Lâm rồi ra mở trường dạy học nhằm chiêu tập chiến hữu và làm cố vấn cho cuộc khởi nghĩa Võ Trứ. Năm 1898, bị địch bắt giam đến năm 1907. Ra tù, tham gia và lãnh đạo phong trào Duy Tân nên lại bị đày ra Côn Đảo đến năm 1914. Năm 1915 cùng các đồng chí thành lập Hội Việt Nam Quang phục và tổ chức cuộc khởi nghĩa Duy Tân. Kế hoạch khởi nghĩa bị lộ, ông bị bắt và hy sinh giữa năm 1916.
Ngô Đức Kế (1878 -1929)
Sinh năm Mậu Dần, là chí sĩ yêu nước, nhà báo, hiệu Tập Xuyên, quê Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Ông xuất thân từ một nhà nho yêu nước, đỗ Tiến sĩ năm 1901, nhưng không ra làm quan. Theo ý của Phan Bội Châu ông đã mở Triều Dương thương điếm ở Vinh, buôn bán, trợ cấp kinh phí, liên kết với phong trào Đông Du. Năm 1908, ông bị bắt và đày ra Côn Đảo 13 năm. Năm 1922, ông ra Hà Nội làm chủ bút tờ Hữu Thanh đối chọi với tờ tạp chí Nam Phong. Ông là người có nhiều uy tín với thanh niên trí thức những năm 20 của thế kỷ XX. Ông qua đời vào năm 1929, hưởng thọ 51 tuổi.
Trần Thủ Độ (1194 - 1264)
Trần Thủ Độ (1194-1264)
Sinh năm Giáp Dần, đại danh thần thời Trần, quê Thái Bình. Sắc sảo, quyết đoán lại giỏi ứng biến, nhiều mưu lược, phò giúp triều Lý chống dẹp các cuộc phản loạn và đạo diễn việc vua Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh ngày 10/1/1226, lập nên nhà Trần. Bằng tài năng chính trị và quân sự xuất chúng, ông xử lý sâu sắc, thấu đáo mọi quan hệ, vụ việc, tạo được uy phong lừng lẫy, năm 1234 thăng tới Thống quốc Thái sư (Tể tướng), trở thành trụ cột triều Trần và lãnh đạo Nhân dân toàn thắng trong cuộc chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông năm 1258.
Lương Văn Can (1854 - 1927)
Sinh năm Giáp Dần, chí sĩ cận đại, quê Hà Nội. Nho nhã, thông tuệ, tân tiến, năm 20 tuổi đỗ Cử nhân, mở trường Đông Kinh nghĩa thục và khởi xướng phong trào Duy Tân yêu nước. Giặc khủng bố, lưu đày ông 7 năm sang Campuchia. Cuối năm 1921, ông trở về Hà Nội, tiếp tục hoạt động chính trị, xã hội và dạy học, viết sách. Ông để lại nhiều công trình giá trị về luân lý, lịch sử và ngôn ngữ.
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (1914 - 1967)
Nguyễn Chí Thanh (1914 - 1967)
Sinh năm Giáp Dần, Đại tướng, quê Thừa Thiên - Huế. Gan dạ, kiên trung, nhiệt thành yêu nước, từ năm 17 tuổi đã đấu tranh chống chính quyền bảo hộ, rồi tham gia phong trào bình dân, tích cực hoạt động cách mạng. Trong kháng chiến chống Pháp, làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và năm 1950 được phong quân hàm Đại tướng. Trong kháng chiến chống Mỹ, làm Bí thư Trung ương cục miền Nam một thời gian dài. Với nghị lực, tài năng và những chiến lược táo bạo, hiệu quả, ông lập nhiều chiến tích vẻ vang, góp phần quan trọng làm nên sự toàn thắng trong công cuộc chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Đồng Dao