Huyện Lai Vung sau 10 năm thực hiện Pháp lệnh Dân số

Cập nhật ngày: 20/01/2014 05:20:43

Pháp lệnh Dân số năm 2003 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI thông qua ngày 9/1/2003 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/5/2003. Pháp lệnh là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất trong lĩnh vực dân số, đồng thời góp phần nâng cao trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong công tác dân số, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; tăng cường, thống nhất quản lý nhà nước về dân số. Qua 10 năm triển khai, thực hiện Pháp lệnh Dân số, chất lượng công tác dân số của huyện Lai Vung có bước chuyển biến tích cực.


Con em của huyện Lai Vung được tạo điều kiện học tập tốt sau
10 năm thực hiện Pháp lệnh Dân số

Kể từ khi Pháp lệnh Dân số 2003 có hiệu lực, huyện Lai Vung đẩy mạnh việc tuyên truyền các nội dung của Pháp lệnh để các tầng lớp nhân dân nâng cao ý thức chấp hành các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước về dân số, đồng thời đẩy mạnh đầu tư, hỗ trợ các chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình và nâng cao chất lượng dân số. Mặc khác, ngành dân số của Lai Vung cũng tích cực phối với các các ban, ngành, đoàn thể và địa phương trong huyện triển khai thực hiện công tác dân số.

Kết quả, trong 10 năm qua qui mô dân số của huyện được giữ ở mức phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tỷ lệ các cặp vợ chồng độ tuổi sinh đẻ sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại tăng từ 74,65% (năm 2003) lên 80,70% (năm 2013); tỷ suất sinh thô giảm từ 15,03%o (năm 2003) xuống còn 12,42%o (năm 2013); tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên của địa phương cũng giảm đáng kể. Nếu như năm 2003, Lai Vung có tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên là 1,22%, thì đến năm 2013 chỉ còn 0,87%. Hiện nay, dân số toàn huyện hơn 172.484 người, tăng bình quân 1.230 người/năm trong giai đoạn 2003-2013. Trong khi đó giai đoạn 1995-2000, dân số của địa phương tăng bình quân 2.135 người/năm. Điều đó cho thấy sự tác động tích cực của Pháp lệnh Dân số và các chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) đã góp phần điều chỉnh qui mô dân số của huyện. Đây là thành công lớn của công tác DS-KHHGĐ ở Lai Vung sau 10 năm triển khai thực hiện Pháp lệnh Dân số.

Cơ cấu dân số của huyện Lai Vung cũng được giữ ở mức hợp lý. Nam chiếm tỷ lệ 50,04%, nữ chiếm tỷ lệ 49,06%; tỷ số giới tính chung là 100,16 nam/100 nữ và tỷ số giới tính khi sinh là 107 nam/100 nữ. Theo nhóm tuổi, độ tuổi từ 0-14 tuổi chiếm 19,28%, từ 15 đến 19 tuổi chiếm 69,57% và từ 60 tuổi trở lên chiếm 11,15% dân số toàn huyện.

Bên cạnh đó, trong 10 năm qua, Lai Vung cũng có nhiều nỗ lực trong việc tạo ra các điều kiện đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng dân số. Điển hình như nguồn lực và cơ sở vật chất phục vụ cho công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân được quan tâm đầu tư. Đến nay, 100% Trạm Y tế của huyện đều đạt chuẩn Quốc gia về cơ sở vật chất và có bác sĩ phục vụ. Công tác kiểm soát và phòng, chống dịch bệnh được thực hiện tốt. Tỷ lệ phụ nữ mang thai được quản lý đạt bình quân hơn 97%/năm; tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng đầy đủ đạt 100%; tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng giảm từ 20,17% (năm 2003) xuống còn 12,61% (năm 2013). Các đợt Chiến dịch chăm sóc sức khỏe sinh sản/KHHGĐ hằng năm cũng được tăng cường, góp phần giảm tỷ lệ phụ nữ mắc các bệnh liên quan đến đường sinh sản từ 50,34% (năm 2003) xuống còn 22,70% (năm 2013). Ngoài ra, huyện cũng đã triển khai thực hiện Đề án sàng lọc trước sinh và sàng lọc sơ sinh tại 12/12 xã, thị trấn và bước đầu đã phát huy hiệu quả, góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân về các vấn đề liên quan đến chất lượng giống nòi.

Tuy vậy, trong thực hiện Pháp lệnh Dân số, huyện Lai Vung vẫn còn một số khó khăn. Một số địa phương còn hình thức, thiếu thường xuyên quán triệt đầy đủ các nội dung của Pháp lệnh. Hiệu quả của công tác DS-KHHGĐ ở một số nơi còn thấp, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên không giảm. Đội ngũ công tác viên dân số chất lượng hoạt động chưa cao. Việc phân bố dân cư chưa đạt tính hợp lý cao, năm 2013 mật độ dân số bình quân của huyện là 725 người/km2 , tuy nhiên có 7/12 xã của huyện có mật độ cao hơn. Điển hình như xã Long Hậu, có mật độ dân số 942 người/km2, trong khi diện tích đất xã này chỉ chiếm 10,17% diện tích đất toàn huyện nhưng chiếm đến 13,22% dân số toàn huyện hay như xã Tân Thành có mật độ dân số 971 người/km2 và diện tích đất chiếm 7,49% diện tích đất của huyện nhưng lại chiếm đến dân số hơn 10% dân số của huyện.

PT

< Trở về trang trước
Gửi bình luận của bạn